1.
Thuận lợi và khó khăn:
·
Thuận lợi:
+ Phần lớn thầy cô đã đổi mới phương
pháp dạy học và thiết kế bài dạy phù hợp cho tiết dạy theo phương pháp đổi mới
hiện nay.
+ Một số em tỏ ra đặc biệt thích thú với môn học và có ý thức học tập tốt.
+ Được Ban Giám Hiệu quan tâm, các thầy cô và bạn đồng
nghiệp giúp đỡ tận tình.
+ Sự phát triển của ứng dụng CNTT trong giảng dạy.
+ Bản thân giáo viên luôn phấn đấu, học hỏi trau dồi
chuyên môn.
·
Khó khăn:
+ Đa số phụ huynh ít
quan tâm đến việc học tập của con cái ở nhà, chưa đặt ra kế hoạch học tập cho
con em một cách phù hợp. Hay do phương pháp đổi mới hiện nay nên một số phụ
huynh gặp khó khăn trong quá trình hướng dẫn con em học tập.
+ Mặt khác với sự phát triển mạnh mẽ
của xã hội với các phương tiện thông tin đại chúng đầy đủ, phim ảnh, các trò
chơi hấp dẫn,. cũng ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình học tập của học sinh.
+ Phương pháp học tập mới chủ yếu là
học sinh tự làm thí nghiệm, tự khám phá, chiếm lĩnh kiến thức còn mới đối với
học sinh.
+ Nhưng với thái độ học tập phần đông
của học sinh thụ động nên tiết dạy trở nên trầm lặng. Nó ảnh hưởng rất nhiều cho quá
trình tiếp thu kiến thức mới của học sinh và quá trình hướng dẫn của giáo viên
trên lớp.
2.
Những
giải pháp cũ thường thực hiện:
Trong
quá trình giảng dạy, dự giờ học hỏi kinh nghiệm từ đồng nghiệp, tham khảo tài
liệu dạy học, tôi đã áp dụng một số biện pháp như sau:
·
Hướng dẫn học sinh làm thí nghiệm mỗi
bài dạy.
·
Đặt vấn đề gợi sự tò mò hứng thú với học
sinh trước khi vào bài mới.
·
Yêu cầu các em tìm các ví dụ ứng dụng
bài học.
3.
Hình thức áp dụng :
Có thể áp dụng trong từng tiết dạy tuy nhiên thời gian một tiết học có thể không đáp ứng được hết do đó
thực hiện theo chuyên đề thì hợp lý hơn.
4. Một số
biện pháp :
Để giờ học Vật Lý thêm sôi động, học sinh học tập tích cực và ngày
càng
yêu thích môn Vật Lý thì tôi nghĩ giáo viên có thể áp dụng kết hợp các giải pháp thường sử dụng với các biện pháp sau đây :
a. Giới thiệu về
bộ môn Vật Lý :
Cần phải cho học sinh thấy rõ các kiến thức mình sẽ nghiên cứu được ứng dụng vào thực tế như thế nào, kể một số hiện tượng, dụng cụ điển hình đã áp dụng thành công kiến thức Vật Lý. Giáo viên cần đặt
ra một số câu hỏi về hiện tượng trong thực tế mà để trả lời được thì đòi hỏi học sinh phải cần có kiến thức Vật Lý. Như :
- Tại sao hòn đá ném lên lại rơi xuống trong khi con tàu vũ trụ có thể bay được lên bầu trời ?
- Tại sao phải có gió thì diều mới bay được ?
- Tại sao chỉ cần một sợi dây bằng đồng lại có thể truyền điện để thắp sáng được bóng đèn, làm cho quạt quay
?
- Tại sao ta có
thể
nhìn thấy hình ảnh của mình khi đứng trước gương.
- Tại sao Trái Đất hình cầu mà con người và mọi vật trên
Trái Đất không bị rơi khỏi Trái Đất ?
- Người thợ nhiếp ảnh có thể lưu lại hình ảnh của người khác bằng một dụng cụ rất
nhỏ ?
- Tại sao máy bay thường sơn màu trắng mà không sơn màu đỏ hoặc màu đen ?
- …
b. Hướng dẫn học sinh cách
chuẩn bị một tiết học Vật Lý:
Sau khi giới thiệu về bộ môn xong, giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh một số bước
chuẩn bị trước chi tiết học như :
- Đọc trước bài mới ở nhà.
- Tìm hiểu nội dung chính của bài để biết được phần kiến thức mới mà mình phải lĩnh
hội.
- Phân tích xem để lĩnh hội kiến thức mới đó thì phải cần vốn kiến thức cũ nào hay không ?
- Cần phải làm
thí
nghiệm như thế nào, dụng cụ gì để tìm
hiểu phần kiến thức mới.
- Đọc và trả lời trước các câu hỏi ở nhà để tìm tòi các sách báo, kiến thức có liên quan.
- Cũng có thể hướng dẫn học sinh cách học để có thể học thuộc phần khiến thức mới
tại lớp.
c. Giới thiệu cho
học sinh sách báo, tài liệu có liên quan, hoặc giới
thiệu về các nhà
Vật lý nổi tiếng liên quan đến bài học :
- GV cần nghiên cứu trước và giới thiệu cho học sinh cách tìm hiểu sách tham khảo, các tài liệu có liên quan. Đồng thời có thể khuyến khích học sinh nào tìm và giải thích được một số hiện tượng liên quan đến bài học trình bày trước lớp có phần thưởng hoặc cho điểm trước lớp.
- Ngoài thí nghiệm ở sách giáo khoa có thể tìm thêm một số thí nghiệm, dụng cụ thay
thế
mà trong sách hoặc phòng thí nghiệm không có. Ví dụ như :
+ Tự chế tạo bình thông nhau để cân mặt bàn nằm ngang.
+ Chế tạo máy atut để khảo sát chuyển động đều.
+ Chế tạo dụng cụ chứng minh môi trường truyền âm.
+ Chế tạo bàn
đinh cho thí nghiệm bài áp suất chất rắn.
+ Tự chế tạo bình chia
độ
+Tự làm mô hình động cơ
điện 1 chiều đơn giản với pin, nam châm và khung dây dẫn.
…………
- Giáo viên cần phải tìm hiểu thêm về cuộc đời nghiên cứu của các nhà Bác học có liên quan đến kiến thức trong bài (nếu có hình ảnh về các nhà Vật Lý nổi tiếng cho học sinh xem). Ví dụ như :
+ Ở lớp 6 khi dạy bài “ Đòn bẩy”, giáo viên có thể giới thiệu sơ nét về Acsimet và câu nói nổi tiếng của ông “ Hãy cho tôi một điểm tựa tôi sẽ nâng
bổng Trái Đất lên”; hoặc khi dạy bài : “ Trọng lượng”, giáo viên kể về NiuTơn, về chuyện quả táo rớt trúng đầu ông, …
+ Ở lớp 8 khi dạy bài “ Áp suất khí quyển”, kể về Torixenli và việc chế tạo khí áp kế liên quan đến việc dự báo thời tiết trong cuộc sống; hoặc khi dạy bài Lực đẩy Acsimet kể câu chuyện của ông về việc phát hiện ra
lực đẩy của chất lỏng lên các vật nhúng chìm trong đó.
……….
- Cần đưa ra một số hình ảnh trong sách báo, hoặc thông tin trên phương tiện nghe
nhìn để học sinh nắm sâu và nhớ lâu hơn phần kiến thức tại lớp.
+
Bài Sự nở vì nhiệt của chất khí: khinh khí cầu, đèn trời.
+ Bài chương điện lớp 7: Sự phóng điện giữa các đám mây, hệ thống cột thu lôi
+ Phần quang học 7: hiện tượng nhật thực , ứng dụng gương cầu lồi
+ Phần âm học 7: biểu diễn đàn ly
+ Phần điện học 9: Nam châm điện đơn giản
+ Phần quang học 9: Cấu tạo máy ảnh đơn giản.
+ Phần cơ học 6: ứng dụng lực đàn hồi
d. Liên hệ thực tế:
- Trong từng phần kiến thức cần liên hệ và đưa ra một số hiện tượng trong thực tế yêu cầu học sinh vận dụng kiến thức để giải thích.
- Kể một số câu chuyện, hiện tượng trong thực tế có liên quan tới kiến thức như :
+ Ở nước ngoài, vào mùa tuyết rơi, người dân đi ra đường thường bị trợt té,
gây tai nạn rất nhiều.
+ Cá chình điện hay còn gọi là lươn điện ở Nam Mĩ có thể tạo ra dòng điện mạnh để giết chết con mồi , làm choáng ngất một người khoẻ mạnh.
+ Chuyện ảo thuật chứng minh sức mạnh thần kỳ mà trong đó lợi dụng vào
nam châm điện.
+ Việc di chuyển nguyên căn nhà từ nơi này đến nơi khác.
+ Có thể phát hiện những trang sức bằng vàng có nguyên chất hay không.
+ Tại sao có câu nói “ Đãi cát tìm vàng”
+ Chuyện cân voi của Trạng Lường Lương Thế Vinh.
+ Nước hắt vào bóng đèn đang nóng sáng bóng đèn bị vỡ.
+ Trong ảo thuật người ta có thể nằm lên bàn đinh mà không bị thương.
………
- Cho học sinh nêu các ứng dụng thực tế của bài học trong cuộc sống hoặc giáo viên đưa ra các ứng dụng của bài học trong thực tế để tạo hứng thú cho các em giúp các em nhớ bài lâu hơn:
+ Ở bài “Gương phẳng”, ứng dụng tạo kính tiềm vọng giúp ta ở vị trí bị che khuất tầm nhìn ngang vẫn thấy được những vật ở xa.
+ Ở bài “Tác dụng từ, tác dụng hoá, và tác dụng sinh lý của dòng điện”, ứng dụng tác dụng sinh lý của dòng điện để điều trị bệnh: phương pháp điện di thuốc trị liệu, châm cứu điện, phương pháp xung điện,…..
+ Ứng dụng chế tạo nồi áp suất giúp hầm, nấu đồ ăn nhanh hơn.
+ Ở chương từ trường ,ứng dụng chế tạo hệ thống tàu điện, la bàn,…
+ Ở bài “Gương cầu lõm”, ứng dụng làm bếp mặt trời, choá đèn pin,..
+Ứng dụng chế tạo máy ảnh cơ.
………………
- Tổ chức cho học sinh tự làm một số dụng cụ có liên quan đến bài học có chấm điểm
cho học sinh như :
+ Ở bài “Ròng rọc”, yêu cầu học sinh về nhà chế tạo trước hệ thống chuông báo động.
+ Ở bài “ Lực kế, phép đo lực” có thể hướng dẫn cho học sinh tự chế tạo một
cái lực kế đơn giản nhất bằng các dụng cụ đơn giản, tự tìm.
+ Ở bài “Bình thông nhau” hướng dẫn cho học sinh làm một bình thông nhau
để cân mặt bàn nằm ngang giống như các chú thợ hồ.
+ Ở bài “Gương phẳng”, hướng dẫn học sinh làm kính tiềm vọng, kính vạn hoa.
+ Ở bài “Lực đàn hồi ”, hướng dãn học sinh làm xe chạy bằng dây thun.
+ Ở bài “Tác dụng từ, tác dụng hoá, và tác dụng sinh lý của dòng điện”, làm mô hình nam châm điện.
+ Ở bài “Chuyển động đều”, ngoài cách giáo viên làm thí nghiệm về máy
Atut, có thể yêu cầu học sinh chuẩn bị thêm cho mỗi nhóm của mình một ống
nhựa trong dài khoảng 1m chia các khoảng đề nhau, kín một đầu trong có chứa chất lỏng bất kì ( dầu hoặc nhớt càng tốt để tránh ma sát ) và một hòn bi để mỗi nhóm tự làm và quan sát về chuyển động đều.
+ Ở bài “Độ to, độ cao của âm” , yêu cầu học sinh về làm cây đàn Tam thập
lục để sử dụng trong giờ học.
…………………
- Ở mỗi bài học có thể thiết kế thêm ô chữ để học sinh vận dụng kiến thức vừa học
ngay tại lớp.
- Chiếu một số bộ phim liên quan đến các kiến thức vừa học ( có thể toàn chương
chiếu một lần).
- Tổ chức các buổi thi làm dụng cụ thí nghiệm để bổ sung cho phòng thí nghiệm.
- Nếu có điều kiện, mỗi học kỳ nên tổ chức cho học sinh tham quan ngoại khoá các
nhà máy, các hiện tượng trong thực tế để bổ sung thêm phần kiến thức cho học sinh.
5. Kết quả:
Việc áp dụng các biên pháp trên đây trong một số năm gần đây đã góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập của bộ môn Vật Lý. Tuy chưa phát huy hết nhưng một phần nào đó cũng giúp cho bản thân giáo viên cũng như học sinh thực hiện tốt hơn một giờ dạy và học. Học sinh ngày càng yêu thích bộ môn Vật Lý hơn và mỗi khi tổ chức cho học sinh thi làm dụng cụ học tập thì các em đều hăng hái tham gia.